Tìm kiếm
Chiến lược nào cho việc xây dựng khu CNC tại Việt Nam?
Người đăng tin: Test Test Ngày đăng tin: 30/08/2013 Lượt xem: 30

Quá trình hình thành các Science - Technology Park có 2 chiến lược chính là chiến lược “từ Research” (gọi là chiến lược R) và chiến lược “từ Industry” (gọi là chiến lược I). Chiến lược R cũng như I đều không khả thi ở Việt Nam. Vậy chiến lược nào để ta có thể xây nên một khu CNC hay theo cách gọi thông dụng quốc tế là một Science - Technology Park?


Lời BBT: Khu công nghệ cao (KCNC) Đà Nẵng được thành lập ngày 28/10/2010 theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Chọn chiến lược thích hợp nhất để phát triển KCNC là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Ban Quản lý KCNC.
Được sự cho phép của tác giả, Ban Biên tập Website KCNC Đà Nẵng trân trọng gửi tới độc giả chùm bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Trọng đề cập đến chiến lược xây dựng KCNC ở Việt Nam. Các bài viết này đã được đăng trên Website KCNC thành phố Hồ Chí Minh (shtp.hochiminhcity.gov.vn).
Tiến sĩ Nguyễn Trọng đã từng kinh qua các chức vụ: Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Tin học thành phố Hồ Chí Minh các khóa 2 và 3 (1993 - 2004); Tổng biên tập Tạp chí Thế giói Vi tính - PC World VN (11/1992 - 11/2004); Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Quốc gia về Công nghệ thông tin (2002 - 2004).
 
Bài 4: Chiến lược nào cho việc xây dựng khu CNC tại Việt Nam?
 
Khu công nghệ cao (CNC) là một quần thể gắn bó hữu cơ của các hoạt động sản xuất CNC (hay còn gọi là công nghiệp CNC) và các nghiên cứu phát triển các công nghệ về CNC (hay còn gọi là R&D về CNC).
 
Hai chiến lược cơ bản xây dựng các khu CNC trên thế giới: chiến lược R và chiến lược I.
Chúng ta nhắc lại khái niệm véctơ đặc trưng V(p, q, r) của các khu sản xuất và nghiên cứu CNC (với những tên gọi ít nhiều khác nhau) trên thế giới. Các thành phần của V là:
- p là số các doanh nghiệp CNC và các viện nghiên cứu CNC trong khu;
- q là số tiến sỹ làm việc trong các doanh nghiệp và các viện nghiên cứu trong khu;
- r là số bằng sáng chế được cấp hàng năm cho các doanh nghiệp và các viện nghiên cứu trong khu.
 
Các khu công nghiệp CNC bình thường thì lực lượng cấu thành p chỉ gồm các doanh nghiệp sản xuất CNC, rất ít khi có các viện nghiên cứu CNC đặt trong khu. Tuy nhiên đặc điểm quan trọng hơn cả của các khu này là q và r thường rất nhỏ, có thể bằng zero!

Các khu CNC (như mục tiêu hướng tới của khu CNC Hoà Lạc, khu CNC TP HCM) hay trên thế giới còn gọi là các Science - Technology Park thì véctơ đặc trưng V có hình thái rất đặc biệt, rất cần tuân thủ như sau:
 
Thành phần p thường là cỡ nhiều trăm, bao gồm chủ yếu là các doanh nghiệp sản xuất CNC, có thể có một số các viện nghiên cứu CNC. Thành phần q thường là cỡ nhiều ngàn, với khoảng 80% làm việc trong các doanh nghiệp sản xuất CNC. Thành phần r thường cỡ nhiều ngàn, với khoảng 80% là các bằng sáng chế cấp cho các doanh nghiệp sản xuất CNC. Từ đây ta cũng thấy trong các Park này sự gắn kết hữu cơ của việc gia tăng p, q, r.
 
Quá trình hình thành các Science - Technology Park có 2 chiến lược chính sau:
Chiến lược “từ Research” (gọi là chiến lược R) và chiến lược “từ Industry” (gọi là chiến lược I).

Các quốc gia có nền khoa học và công nghệ tiên tiến có thể thực thi chiến lược R. Sự khởi đầu diễn ra như sau. Một số viện nghiên cứu mạnh (có thể là một số đại học mạnh) tập trung ở một vùng nào đó. Họ có rất nhiều patent. Từ những patent này phát sinh một số doanh nghiệp sản xuất CNC, được tách ra (spin - off) khỏi hoạt động nghiên cứu của viện. Rồi chính các doanh nghiệp spin - off này để có thể duy trì năng lực cạnh tranh sẽ phải tiến hành những hoạt động R&D độc lập hoặc phối hợp với các viện. Như vậy có thể thấy một giai đoạn quan trọng là từ Research đẻ ra Industry và rồi các doanh nghiệp sản xuất cũng phải làm Research để tồn tại và các doanh nghiệp sản xuất khác (không phải spin - off từ các viện) cũng kéo vào. Một quần thể nghiên cứu, sản xuất được tụ lại và thành Scence - Technology Park. Đó là Sophia Antipolis, một Technology Park nổi tiếng thế giới ở Pháp, có giai đoạn hình thành khoảng 15 năm (1970 - 1984), đó là Silicon Valley nổi tiếng ở Mỹ…
 
Các quốc gia chưa có nền khoa học và công nghệ phát triển mà có chủ trương xây dựng khu CNC thì không có cách nào khác phải chọn chiến lược I. Trường hợp điển hình là Hsinchu (xem các bài:1. Các khu CNC tại Việt Nam, cái gì là khó nhất?; 2. Mối tương quan giữa công nghiệp CNC với hoạt động R&D trong các khu CNC; 3. Suy nghĩ về chúng ta, khu CNC với các quốc gia ở xa phía sau trên con đường phát triển, làm sao để không là ảo vọng?).Với Hsinchu thì p tăng kéo theo q và r cùng tăng. Ở Hsinchu cũng có một số doanh nghiệp sản xuất CNC spin - off từ viện nghiên cứu ITRI và Đại học Thanh Hoa nằm bên cạnh Khu Hsinchu. Tuy nhiên nguồn lực gia tăng q và r chủ yếu là do p tăng, tức do Hsinchu thu hút mạnh các doanh nghiệp sản xuất CNC vào trong khu. Những doanh nghiệp này lớn dần và để duy trì năng lực cạnh tranh buộc phải tiến hành các hoạt động R&D, loại hoạt động làm q và r tăng theo. Nếu các doanh nghiệp sản xuất CNC không đủ mạnh hoặc chỉ là các doanh nghiệp do đầu tư nước ngoài thì không thể có hiện tượng tăng p kéo theo q và r tăng. Như vậy, để có thể thực thi chiến lược I thì điều kiện rất quan trọng là quốc gia đó mặc dầu chưa có nền khoa học - công nghệ phát triển nhưng phải có tiềm năng mạnh về sản xuất CNC của chính mình. Nền sản xuất CNC quy mô lớn này chính là nguồn lực chủ yếu sẽ làm phát sinh năng lực R&D CNC.
 
Với cả hai chiến lược thì sau khoảng 15 - 20 năm phát triển tốt, các Science - Technology Park, sẽ có cả “khoa học - công nghệ”  và “công nghiệp CNC” phát triển. Những thành phần này vừa là con gà, vừa là quả trứng trong các khu CNC.
 
Chiến lược nào cho chúng ta?
 
Chúng ta chưa có nền khoa học - công nghệ đủ tầm để có thể làm phát sinh kha khá những doanh nghiệp sản xuất CNC theo kiểu spin - off. Do đó ta không thể theo chiến lược R. Mặt khác, ta cũng chưa có nhiều (thậm chí có thể nói là hoàn toàn chưa có!) các nhà sản xuất công nghiệp CNC đủ mạnh để tổ chức các hoạt động R&D nhằm phát triển các sản phẩm, duy trì năng lực cạnh tranh quốc tế. Do đó ta cũng khó mà theo được chiến lược I để xây dựng các khu CNC (như kiểu Hsinchu). Hiện nay, các khu công nghiệp CNC của ta (ở trong thành phần các khu CNC hay bên ngoài) đều chủ yếu là thu hút đầu tư nước ngoài. Có người cho rằng có thể “buộc” các doanh nghiệp CNC nước ngoài này tổ chức các hoạt động R&D, nghĩa là ta được những  2 con cá: công nghiệp CNC và R&D CNC, mà chỉ bắt bằng một tay là thu hút đầu tư sản xuất CNC từ nước ngoài! Giờ thì không mấy ai còn ngây thơ hy vọng điều này. Các nhà đầu tư sản xuất CNC ấy không bao giờ tổ chức các hoạt động R&D đáng kể ở nơi họ đầu tư sản xuất vì rằng năng lực cạnh tranh của họ được đảm bảo ở chỗ khác. Nói cách khác, những nhà đầu tư sản xuất CNC này luôn có các hoạt động R&D được tổ chức ở chính quốc hoặc ở một quốc gia nào khác có năng lực khoa học và công nghệ mạnh, rất gần với dòng sản phẩm họ cần phát triển.
 
Vậy sao đây? Chiến lược R cũng như I đều không khả thi ở Việt Nam. Vậy chiến lược nào để ta có thể xây nên một khu CNC hay theo cách gọi thông dụng quốc tế là một Science - Technology Park? Một số quan chức tham mưu gần gũi với các nhà ra quyết định thường hoặc chưa nhận thức được rằng ta chưa có chiến lược để xây dựng các khu CNC hoặc biết điều đó nhưng vì nhiều lý do mà che đậy thực tiễn này đối với những nhà ra quyết định.
 
Như vậy, trước khi tìm chiến lược thích hợp cho chúng ta thì chúng ta cần nhận thức rằng ta thực sự chưa có chiến lược thích hợp. Ngược lại, nếu cho rằng chiến lược đã có, kế hoạch cũng đã có thì việc bàn thêm có thể là không thích hợp nữa.
 
Vì vậy, chúng tôi xin tạm dừng loạt bài luận về các khu CNC tại Việt Nam với suy nghĩ cá nhân là chúng ta chưa có chiến lược thích hợp để xây dựng các khu CNC. Tuy nhiên có lẽ không phải là chiến lược đó không tồn tại. Chỉ xin nêu một luận điểm nhỏ là: Nếu số patent được cấp hàng năm trong một khu vực công nghệ nào đó của Việt Nam (chẳng hạn trong ngành điện tử - bán dẫn hay trong công nghệ nano…) không đạt con số cỡ vài ba trăm thì chúng ta chưa thể mơ về một khu CNC. Một phần của chiến lược xây dựng các khu CNC ở Việt Nam phải bao gồm chiến lược nâng con số patent về vài ngành công nghệ nóng từ con số gần như zero hiện nay lên con số vài ba trăm trong khoảng thời gian khoảng dăm bảy năm tới đây. Rất khó, nhưng đó lại là điều kiện cần để hiện thức hóa giấc mơ về một khu CNC ở nước ta.
 
Trong bài 1 (Các khu CNC tại Việt Nam, cái gì là khó nhất?) của loạt bài này, chúng tôi có nêu ba câu hỏi quan trọng:
 
1. Mặt bằng là một trở ngại. Tuy nhiên, trở ngại đó có là lớn nhất không?
2. CNC hay công nghiệp CNC?
3. Công nghiệp CNC trong các khu CNC khác gì với công nghiệp CNC ở các khu công nghiệp khác?
 
Đến đây, theo chúng tôi, chúng ta đã có thể trả lời 3 câu hỏi trên.
 
Câu hỏi 1: Theo chúng tôi, dù chúng ta có mặt bằng trống (nhất định là sẽ có) thì việc xây dựng khu CNC ở nước ta vẫn vô cùng khó khăn. Khó khăn lớn nhất là tìm cho ra chiến lược đúng. Chiến lược R mà các quốc gia có nền KH&CN mạnh là không thích hợp. Chiến lược I mà các quốc gia chưa có nền KH&CN mạnh nhưng có tiềm lực khá về sản xuất công nghiệp CNC cũng không thích hợp với chúng ta.
 
Câu hỏi hai: Ý câu hỏi này là chúng ta theo chiến lược R (xây dựng một Science - Technology Park bắt đầu từ nghiên cứu & phát triển CNC) như Mỹ, Pháp, Nhật.... hay chiến lược I (xây dựng một Science - Technology Park bắt đầu từ công nghiệp CNC) như Đài Loan? Như trên đã nói, cả 2 chiến lược đều không áp dụng được với điều kiện hiện nay của ta. Còn nếu gọi một khu công nghiệp CNC với véctơ đặc trưng đại thể cỡ (100, 20, 5), tức có khoảng 100 doanh nghiệp CNC với vài ba chục tiến sĩ làm việc trong khu (lập vài phòng thí nghiệm như ở Sài Gòn chẳng hạn), với dăm sáu bằng sáng chế mỗi năm là khu CNC thì Việt Nam làm được.
 
Câu hỏi ba: Đây là câu hỏi quan trọng nhất, giúp ta nhìn ra vấn đề. Các khu công nghiệp CNC trong thành phần khu CNC (ở Hòa Lạc hay ở TP HCM hay ở Silicon Valley...) và các khu công nghiệp CNC bình thường (ở Bắc Giang hay Bắc Ninh...) khác nhau cơ bản ở chỗ nào? Điểm khác nhau cơ bản là các doanh nghiệp CNC ở trong khu CNC (hay trong các Science - Technology Park) phải làm phát sinh sự gia tăng q và r trong vectơ đặc trưng V(p, q, r) của khu CNC, còn với các khu công nghiệp CNC khác thì q và r thường rất nhỏ và không mấy liên quan đến số lượng các doanh nghiệp sản xuất CNC trong khu. Nói cách khác, với các khu công nghiệp CNC bình thường (kiểu ở Bắc Ninh, Bắc Giang…) thì vectơ đặc trưng V(p, q, r) không có sự phụ thuộc gì giữa thành phần p (số các doanh nghiệp sản xuất CNC trong khu) với 2 thành phần còn lại q và r.
 
Trả lời được 3 câu hỏi trên là một bước cần thiết để tìm ra chiến lược hiện thực hóa giấc mơ về khu CNC ở nước ta.
 
TS. Nguyễn Trọng

TRỤ SỞ:

     Lô A17, đường Trung tâm, Khu công nghệ cao, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng

    0236 3666117           

    dhpiza@danang.gov.vn

   Điện thoại bộ phận Tiếp nhận hồ sơ và Trả kết quả cho công dân, tổ chức: 0236.3666100.

©© Bản quyền của Ban Quản lý Khu công nghệ cao và các khu công nghiệp Đà Nẵng

Giấy phép: Số 05/GP-STTTT do Sở Thông tin và Truyền thông Đà Nẵng cấp ngày 02/01/2020

Trưởng Ban biên tập: Trần Văn Tỵ, Phó Trưởng ban Ban Quản lý Khu công nghệ cao và các khu công nghiệp Đà Nẵng

Ghi rõ nguồn "Trang thông tin điện tử Khu công nghệ cao và các khu công nghiệp Đà Nẵng" hoặc "www.dhpiza.danang.gov.vn" khi trích dẫn lại thông tin từ Website này.

Chung nhan Tin Nhiem Mang
Đăng nhập